nếu như muốn hỏi trong lịch sử Trung Hoa có những loại hoa nào được người ta ưa thích nhất, đáp án chắc chắn sẽ có hoa mai. Ngày nay, trong những loại hoa được chọn làm quốc hoa, danh tiếng lớn nhất vẫn là hoa mai. Có thể nhắc, mai đã trở thành một tượng trưng bỗng nhiên cho phẩm cách của dân tộc Trung Hoa.
=== > Xem thêm: phương pháp tạo nụ cho cây nhất chi mai
Mai là loại cây có nguồn gốc trong khoảng Trung Hoa, quả mai (mơ) có giá trị dùng khăng khăng. Nhưng trong lịch sử trồng trọt bốn ngàn năm trước, mai chủ yếu có trị giá làm cảnh. Ngoài nơi nguồn gốc là Tứ Xuyên, các vùng như núi La Phù thuộc vùng Đại Dữu Lĩnh của tỉnh Quảng Đông, núi Cô sơn tại Tây Hồ, Vũ Xương, đều là những nơi phát triển mạnh.
Mai có trị giá thưởng ngoạn rất cao, thời cổ, trong khoảng những văn nhân nho sĩ, tới người dân thông thường, người nào cũng thích trồng mai, hoặc làm chậu cảnh, hoặc làm vườn cây. Hoa kinh nói: “Mai là vật quý trong dương thế, cho dù là người trí hay nguời ngu, người hiền tài hay kém cỏi, không người nào ko ái mộ hương thơm của nó, nên cho nó là thanh cao. Trước đây trong những khun vườn, chùa chiền, thường sử dụng những gốc mai già ốm nhách, cành lá khẳng khiu để tô điểm”. Ngay ở thời Tống đã có 2 tao nhân yêu mai như tri kỷ. Họa sĩ Tống Bá Nhân đã viết cuốn “Mai hoa hỷ thần phả”, tổng cùng vẽ trăm bức hoa mai, thần thái mỗi bức một khác, đều có tiêu đề và phụ thêm một bài ngũ ngôn tuyệt cú. Thi nhân Lâm Bô thời Tống chưa từng lập gia đình, nơi ở trồng mai nuôi hạc, “lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con”, từ ấy đã viết ra một kiệt tác để đời ca ngợi vẺ đẹp của mai – “Sơn viên tiểu mai” (cây mai nhỏ trong vườn trên núi), trong đấy có câu “Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển, ám hương phú động hoàng hôn” (nghĩa: Bóng cành mai thưa đâm nghiêng nghiêng trên dòng nước trong và cạn, mùi hương thoang thoảng lan tỏa trong bóng hoàng hôn), được người ta nghĩ rằng đã lột tả được vẻ đẹp truyền thần của hoa mai. Người xưa thưởng thức mai, chú trọng đến vẻ “gầy guộc khẳng khiu” và “ cành già thế lạ”. Trước đây người ta còn quan niệm rằng mai có “tứ quý”: “quý ít ko quý rộng rãi, quý già ko quý non, quý gầy ko quý béo, quý ẩn tàng ko quý bộc lộ”, nghĩa là những cây mai hiếm, già, mảnh khảnh, có nụ là những cây có giá trị thưởng ngoạn cao nhất.
==== > Xem thêm: địa chỉ bán giống mai giảo thủ đức uy nhất hiện nay
“Hoa Kính” gọi mai là “vật quý trong thiên hạ”, còn viết rằng mai “quỳnh cơ ngọc tốt, vật ngoại mĩ nhân, quần phương lãnh tụ” (xương thịt bằng quỳnh bằng ngọc, là mĩ nhân ngoài sự vật, là lãnh tụ của các loài hoa). Do đó, mai thường được dùng để ví với người đẹp, hoặc thường có can dự tới chị em. Các vở kịch, tiểu thuyết thời Nguyên Minh gọi nô tì là “Mai Hương”, “mai hương” phần lớn là những thiếu nữ xinh đẹp, giống như những cành mai có nụ chớm nở đang tỏa hương; những cành hoa mai phong thanh gầy yếu, lại giống như thân phận gặp nhiều sóng gió. Tranh cát tường có “trúc mai song hỷ”, là hình vẽ trúc, mai và hai con chim hỉ tước, trúc là chống, mai là vợ, dùng để chúc phúc tân hôn.
Mai nở hoa lúc mùa đông qua xuân tới, báo hiệu một mùa xuân đang tới gần, Chính vì vậy còn có tên gọi là hoa báo xuân. Theo truyển thuyết, có một năm vào mùa đông, Tống Thần Tông hỏi người có học vấn rất cao là Diệp Đào: “Mộc công mộc mẫu là như thế nào? &Ldquo;Diệp Đào đáp: “Mộc công là tùng, mộc mẫu là mai”. Đồng thời, mai báo mùa xuân, còn có ý nghĩa may mắn cát tường, nên câu đối xuân thường viết về mai, như: “Xuân hạ thu đông vi thủ; mai lý đào hạnh mai chiếm tiên” (nghĩa: mùa xuân là mùa đứng đầu trong bốn mùa xuân hạ thu đông, mai chiếm vị trí Đầu tiên trong bốn loại mai mận đào hạnh). Hay như “ trong khoảng cựu tuế kình tùng nhiễm sương tùng cánh lục; Nghênh tân xuân hàn mai ánh tuyết mai cánh hồng” (Tiễn năm cũ, cây tùng to thấm sương tùng càng xanh; đón xuân mới, cây mai lạnh chiếu tuyết mai càng hồng). Bức vẽ con chim hỉ thước đang hót trên cành mai gọi là “hỉ báo tảo xuân”, “hỉ báo xuân tiên”. Những đề tài tranh vẽ kiểu này được ứng dụng rất nhiều.
=== > Xem thêm: Tìm hiểu về giống mai cúc thọ hương
Về phẩm cách của mai, trước đây còn có thuyết “tứ đức”: “mai có tứ đức, mới đâm chồi là “nguyên” (khởi đầu) nở hoa là “hanh” (hanh thông), kết trái là “lợi” (có lợi), trái chín là “trinh” (chính bền)”. Ở đây đã Mọi chi tiết xin liên hệ mai với “nguyên hanh lợi trinh” trong Kinh Dịch, dấu hiệu phẩm chất tốt đẹp của nó. Hoa mai năm cánh, tượng trưng cho ngũ phúc. Câu đối xuân trước đây có câu: “Mai khai ngũ phúc, trúc báo tam đa”. Những điều này, đều hàm ý tăng cường thêm cát tường cho mai.